Thời trung học của tôi
Category: khác, Tag:
dự bị,đồng ấu,Gia đình,Khác
05/14/2010 11:14 am
Tôi viết bài
nầy về các lớp học ngày xưa, các trường lớp tôi đã từng học qua
theo trí nhớ và,,<< ngày xưa >> chỉ là khỏang thời gian từ
1950 đến 1963.Tôi chỉ muốn các thế hệ con cháu sau nầy nếu có quan tâm và tự
hỏi không biết ông bà ta ngày xưa học hành như thế nào thì đây là phản ảnh
trung thực một phần nào thời tôi đã sống.
Tôi
sinh tháng 8 năm 1945 tại nhà thương ở tỉnh Kongpongcham,- ,Camboge.- Nơi
bà nội tôi có 1 tiệm tạp hóa và 1 tiệm may ,nghe kể lại là rất lớn, tiêm ở bên
ngoài 1 đồn điền cao-su ,nơi những người VN,sang Cambodge làm thuê (contrat)
cho Tây.Bà nội tôi cũng là phu cạo mũ,nhờ tính cần kiệm,lo xa,biết làm ăn nên
hết thời hạn contrat,bà không bị nợ nần nên tự ra ngoài buôn bán,lần hồi khá
giả, ba tôi được học trường Pháp chung với con cái các nhà giàu có. Đầu tháng
10 năm 1945,vì sợ nạn "cáp duồng" (người bản xứ hận thù với người
Việt -họ thường chém người VN) nên gia dình tôi chạy về TN.Sau khi chuyển nhiều
nơi, rồi cuối tháng 7 năm 1946,ba tôi biệt tin trong 1 chuyến đi từ TN về Saigon
bằng xe đạp. Cuối năm 1946,gia đình tôi xin vào ở trong nội ô tòa thánh TN,nơi
đó có tên là cửa số 4. Một bà cụ người đạo Cao Đài tốt bụng cho gia đình
tôi 1 miếng đất nhỏ khoảng 4X10m để mở tiệm may.
Khoảng
1950,ở tòa thánh Tây Ninh không có trường mẫu giáo,.Trẻ con từ 6 tuổi trở
lên,bắt đầu đi học thì vào lớp đồng ấu,tức là lớp vỡ lòng hay lớp 1 bây
giờ. Đó là thời kỳ vừa được tạm yên...
Nơi tôi học năm đầu tiên 1950-51 là trường Bàu Ca
Na, gần tòa thánh Cao Đài Tây ninh và thuộc sự điều hành của Đạo.,Học trò đi
học được miễn hoc phí, nhà trường không đòi giấy khai sinh,cha mẹ học
trò chỉ khai tên tuổi đứa nhỏ, thầy theo lời khai ghi
vào danh sách lớp ,nhiều đứa hơn 12,thậm chí 14 tuổi cũng vào lớp vỡ lòng vì
""mắc lo chạy giặc,...,không có trường".
Lớp
học được cất trên 1 khoảng đất trống xung quanh là nhà dân, mái tranh,nền đất ,
có vách ngăn giữa 2 lớp bằng tre đan,còn chung quanh có quây tường
bằng tranh cao khoảng 1 mét,phía dưới hở 1 khoảng lớn,mấy đứa lở đi học
trễ có thể chui thẳng vào chỗ ngồi Đầu lớp là 1 cái bãng đen.và bộ
bàn ghế đơn sơ là chỗ thầy ngồi và trên bàn có 1 vật không bao giờ
thiếu là cây roi mây.
Học trò khát nước thì vào mấy nhà gần trường,lúc nào người dân cũng để sẳn trước nhà1 khạp nhỏ đựng nước mưa và 1 cái gáo dừa có làm cán để người qua đường uống .
Không có nhà VS,hoc trò mắc tiêu,tiểu thì lẫn vào vườn chuối cạnh trường .Về sau người ta làm cầu tiêu bằng cách bắc 1 miếng ván,1 đầu trên bờ,1 đầu gắn vào chac ba cây cà na dưới bàu....Đi VS xong lấy lá cà na chùi mà sao lúc đó ko thấy ai bệnh gì?,,,,
Học trò đi học không thuộc bài,làm biếng,nghịch ngợm
thường bị quì gối là nhẹ,nặng hơn thì bị khẻ tay,nặng hơn nữa thì bị quất bằng
roi mây.Cha mẹ hs không ai phàn nàn gì,tôi còn nghe có lần ba 1 đứa học
trò hay phá trong lớp nói với thầy : Thầy cứ cho nó ăn roi mây cho
nó sợ.
Hồi
đó, lớp đồng ấu không có sách giáo khoa, thầy , thầy tự dạy các
vần a,b,c viết lên bảng ,trò lập lại. Cách phát âm giống như
vần Pháp : a,b,c chớ không phải a,bờ cờ ..tập viết thì
thường dùng cành cây viết lên đất hoặc viết phấn trên bảng nhỏ bằng
đá đen ,có gạch hàng,chừng nào viết tạm được mới dùng bút chì viết lên
giấy.Cuốn tập thường mỏng bìa bằng giấy bản dày,thường có màu xanh lá hay
đỏ với các hình vẻ cây bút,cuốn sách....bằng mực đen, dày 48 trang,giấy
màu xám đen hoặc ngà,không trắng như bây giờ và bút chì thì nghe đâu là hàng
nhập từ Pháp..bút chì màu không có,mấy đứa nhà giàu,có người thân trên Saigon
mới mua được cây bút chì có 2 màu xanh dương,đỏ. Hồi đó,học trò không có cặp đi
học như bây giờ,vỡ thường được bỏ vào cái bị bàng nhỏ hoặc đứa khá hơn
thì cha mẹ mua cho 1 cái cặp cũng đan bằng bàng( cói) có 2 ngăn.
Hết
năm,trò đọc được hết chữ cái,biết ráp những vần đơn giãn,làm được toán cộng trừ
2 con số thì lên lớp dự bị.
Ở lớp dự bị (lớp
2) có những bài chánh tả ngắn,học trò phải dùng viết mực,mấy bạn con nhà
giàu đi chợ mua cây viết cán bằng nhựa,ngòi bằng thiếc gọi là ngòi
bút lá tre (có lẽ mũi viết nhọn giống hình cái lá tre ) và mực bình
.Mấy đứa nhà nghèo, ba mẹ ra tiệm tạp hóa mua cái ngòi viết
và dùng 1 đoạn tre nhỏ, chẻ 1 đầu đút ngòi viết vào , cột chặt lai cũng
viết được.
Về
mực,mực chế sẳn đóng trong bình rất hiếm và mắc nên chúng tôi
thường mua mực viên về đỗ nước vào 1 cái bình nhỏ hoặc 1 cái chai
ngâm tan ra dùng.Mực viên thường có 2 màu xanh dương và
tím,màu đen và đỏ thì ít thấy.Có lần chúng tôi còn đi hái hột mùng
tơi chín màu tím về ngâm mực,màu nhìn đẹp nhưng khi viết,lăn cục phấn
qua thì gần như không còn nét chữ .
Công
nghệ làm tập giấy thời đó thô sơ, khi viết chữ,mực thường thấm qua giấy
sang mặt bên kia.Khi viết xong 1 chữ phải dùng 1 cục phấn lăn qua
hoặc tờ giấy chậm thấm lên .Thời đó rất
hiếm giấy chậm cũng như phấn viết bảng...., bút viết thô sơ nên sau mỗi
buổi học, mặt mày,tay chân,quần áo mấy đứa học trò lấm lem đứa xanh
đứa tím...
Năm
học thứ 3 của bậc tiểu học gọi là lớp sơ đẳng. Các bài học thầy
lấy từ sách Quốc văn giáo khoa thư Có thêm môn chính tả,học thuộc lòng,
toán,,sử ,địa...khó hơn. Lúc nghỉ hè chờ vào lớp sơ đẳng,cô giáo
Kim là hàng xóm kiểm tra sức học của tôi và cô nói gia đình nên cho
tôi lên thẳng lớp trung đẳng (học nhảy lớp).
Tôi vào học trường mới ở trong khuôn
viên Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh vì trường cũ chỉ có lớp sơ đẳng là cao
nhất.
Ở
trường Đao đức, Thầy Cô thường mặc áo dài trắng,cũng có thầy mặc
Âu phục . Ngày đầu tiên vào lớp,gặp cô giáo Kim mặc áo dài trắng đi
dạy,tôi hết sức bối rối dù cô ở cạnh nhà và ngày nào tôi
cũng gặp .
Chương
trình lớp trung đẳng có toán,chánh tả,luận văn,sử địa và bài học
thuộc lòng-là những baì ngụ ngôn của La Fontaine,được dịch ra theo
thể lục bát như bài "Lừa và ngựa".
Ở
lớp trung đẳng hs còn học thêm môn phụ là môn Hán văn.Người dạy là thầy
hai Nho,kiêm thầy thuốc bắc.Khi vào lớp thầy luôn mặc áo dài đen,quần
trắng,điệu bộ nghiêm nghị.Thầy viết các câu bằng chữ nho lên bảng ,nếu tôi nhớ
không nhầm thì đó là các bài ở cuốn Tam tự kinh.Học trò coi theo đó viết lại và
thầy dùng cây roi mây chỉ từng chữ để trò lập lại.Thật ra chữ Hán rất khó,không
thể nào học theo cách ấy mà nhớ được nên chúng tôi thường học thuộc lòng hết
bài bằng chữ Hán trước và giải nghĩa bằng tiếng Việt sau (thí dụ : nhân
chi sơ là con người mới sinh ra, tính bổn thiện là tính tình vốn hiền
lành....).Khi thầy gọi trả bài thì đứng khoanh tay đọc làu làu một
hơi ,có khi thầy bắt ngừng lại hỏi về 1 chữ nào đó,mấy đứa lanh lợi
phải đếm trong bụng chữ đó ở vị trí thứ mấy rồi trả lời,đứa chậm chạp thì
đành chịu ăn 1 roi thôi,nhưng chúng tôi ít khi bị đòn vì thầy chỉ dạy 2
g/tuần, đâu có thời gian mà hỏi nhiều
Chúng
tôi được thầy dạy dỗ rất kỷ: phải hết sức cẩn thận khi viết bài và không
bao giờ được xé tập (bây giờ tôi luôn luôn cho đây là
1 ý hay) ,không được xé giấy có viết chữ nho,hoặc lấy những tờ giấy
nầy làm việc dơ bẩn (như chùi đít chẳng hạn... xin lỗi) vì như thế sẽ học
ngu vì coi rẽ chữ nghĩa thánh hiền...chúng tôi nghe rất sợ.
Tôi
học chữ nho 2 năm trung đẳng và cao đẳng nhưng xem lai cũng chẳng nhớ chữ gì
ngoài nhất nhị tam .
Năm
tôi học lớp trung đẳng (lớp 4),có nhiều sự kiện xãy ra( cuối 1953),bấy giờ đạo Cao Đài có quân đội riêng,chúng tôi
biết đến những chuyện nầy vì thỉnh thoãng vài ngày trong giờ ra
chơi ,tụi học trò kéo nhau vào Khách đình( nhà tang lễ của đạo
CĐ) coi lính CĐ bị Việt Minh " chụp bót' chết,thường là ở Trà Vỏ,Dênh
Dênh...có bữa số người chết lên đến hơn 20 , những xác người
khốn khổ nầy được chỡ về bằng xe camion lớn, xếp nằm ngang như cá
hộp,nhiều người bị cháy ,chỉ mặc quần xà lỏn ở trần,mấy đứa con trai lại gần
xem về la um sùm là có mùi thúi.,mấy đứa con gái ói mữa tùm lum,về sau bị
cô giáo rầy cấm không cho đi coi ..Có lần trong chùa tổ chức tang lễ tập thể
cho mấy vị ấy,cho hs đi đưa ra nghĩa địa,thấy vợ con mấy chú lính ấy lăn lộn
gào khóc,hs cũng khóc theo.
Cũng
năm học lớp Trung Đẳng,tôi có rất nhiều kỷ niệm đáng nhớ,ngoài mấy vụ
chen chúc nhau coi lính CĐ tử trận đem về Khách đình tẩn liệm để chôn , những
buổi nghĩ học,chúng tôi (tôi,Lê kim Hoàn, Bùi thị Khuyến...) thường len lõi trong các
tòa nhà lớn hái trộm nhãn,xoài,mận, có bũa bị 'bảo thể ( người giũ trật tự
trong nội ô tòa thánh) bắt đòi phạt "quỳ hương" (quỳ gối trước bàn thờ
, đốt cây nhang tàn hết mới được tha,-có tôi nặng hơn bị bắt quỳ đến tàn
hết 5 hoặc 10 cây nhang),.
Có bữa gần trưa, đi chơi trong nội ô , cả đám đói bụng,kéo nhau
vào trai đường ăn cơm chay.
Trai
đường là1 căn nhà gạch lớn nền cao ráo,hình vuông ít khi đóng cửa .Bên
trong là 1 dãy bếp lò chụm củi,trên để những cái chảo gang to đùng,bên ngoài kê
rất nhiều bộ bàn ghế dài bằng gỗ mộc,.nơi nhũng người làm công quả trong chùa
dùng bửa hàng ngày ..Mỗi bàn thường có 1 tô nước tương ,một chồng
tô,muỗng đá nhỏ úp cạnh đó
Bữa
ăn thường là gạo nấu chín nhưng đổ rất nhiều nước để thành ra nữa
cơm nữa cháo,ăn với nước muối pha màu giống nước tương,bữa cơm sang thì có thêm
ít rau nấu canh suông,không có nêm nếm gì ngoài muối,chao.,hoặc xác đậu nành
trộn xả ớt phơi khô rồi nướng lên..Ăn kham khổ nhưng lạ miệng,có bạn bè
vui nên ăn thấy ngon.Chúng tôi vào đó tự xúc ăn nhiều lần mà chẳng
ai rầy rà gì,ăn xong rửa chén úp laị chỗ cũ.
Thật là kính phục đức tin và
sự chịu gian khổ của những người gọi là "hiến thân" cho Đạo.Về sau,mẹ
tôi biết chuyện mấy đứa hay vào trai dường ăn cơm tôi bị rầy một trận.
.Thật ra thì chúng tôi,mấy đứa con nít ở ngoài ăn uống sung sướng đã
quen,vào đây vì tò mò,nếu bắt ăn cơm hàng ngày như vậy chưa chắc ăn được.Sau
nầy tôi biết được có nhiều bạn bè khó khăn,nhờ ăn cơm miễn phí ở trai đường nên
có thể đi học hết TH.
Năm
cuối bậc tiểu học gọi là lớp cao đẳng.Hết năm cao đẳng học trò đi
thi bằng cao đẳng tiểu học,thời ấy thi bằng nầy cũng rất khó,phải ra tỉnh lỵ
thi,có hội đồng thi đặt tại trường tiểu học tỉnh, có số báo danh đàng hoàng,ai
đậu mới được vào trung học,rớt thì ở lại vào học lớp dành cho những người thi
rớt gọi là lớp tiếp liên. Vì hạn chế như vậy nên có nhiều anh, chị
học trước tôi thi hoài không lấy được bằng tiểu học , cứ phải
học tiếp liên liên tiếp hoài đến chán thì nghỉ.
Năm 1956 qui định nầy được
bãi bỏ,hs không đậu tiểu học vẫn có thể vào lớp đệ thất trường tư và năm sau
được thi lai.
Tôi
học trường Đạo Đức hết năm trung đẳng (lớp 4 )
Đầu
lớp Cao đẳng (giữa năm 1954),gia đình tôi dời về cửa số 7(ngoai ô tòa
thánh) thuê nhà mở tiệm may Xóm nầy cách nhà cũ hơn cây số, có con lộ nhỏ
2 nhánh, tráng nhựa, 1 đi thẳng vào cửa số 4, nội ô Tòa thánh và 1
đi qua cửa chánh môn tòa thánh. Dân xóm nầy phần đông là người từ các
nơi đến, Châu đốc,Sa đéc....Họ làm nghề mộc,đóng bàn ghế,tủ
thờ ...chở đi bán khắp nơi,tận Sai gòn.Mấy nhà có rẫy hoặc làm ruộng
thường có đôi trâu,bò để kéo gỗ về bán.Gỗ gần
như được đốn tự do...Nhiều nhà trong xóm đó trở nên khá
giả nên việc may vá của gia đình tôi cũng tốt hơn
Sau nhiều năm cực khổ vì loạn lạc nên khi có chút tiền,người VN mình
thường nghĩ đến nghề nghiệp cho con cái,nhất là phụ nữ. Má
tôi ngoai việc may mướn ra còn kiêm thêm dạy may cho 2 chị quê ở Cẩm
giang, Cuộc sống khá dần lên.
Rồi tình
hình nội bộ đạo lộn xộn, có 1 số người CĐ ly khai,vào núi
Bà Đen lập căn cứ chống lại Đaọ ở Tòa thánh.,họ đặt tên là CĐ Liên Minh.
Một
buổi sáng nọ(tôi không nhớ rõ ngày tháng),tôi dậy sớm,ra sau nhà gặp chị Rơi là
con bác hai Chí ,nhà bên cạnh,hai đứa rủ nhau ra đường chơi thì thấy ai
bỏ đầy giấy trắng cả xấp trước cửa nhà,chị Rơi nói đó là truyền đơn,,
chúng tôi có cầm đọc nhưng thật sự cũng không biết nó nói cái gì, rồi 2 đứa hốt
hết đám giấy đem rãi ngoaì đường . và trước của mấy nhà trong
phố thì bị anh ba Rô,bắt gặp,anh nầy lúc đó đang học đến lớp đệ lục trường
Đạo,anh ấy kêu: : hai đứa vào nhà gấp,coi chừng người ta bắt
bỏ tù.Nghe tới đó,hai đứa lật đật chạy vô nhà đóng cửa lai.
Sau
tôi nghe nói đó là nhóm CĐ ly khai , họ thành lập quân đội
riêng,lấy núi Bà Đen làm căn cứ chống Pháp và CĐ..
Giữa
năm 1955,xóm cửa số 7 đón nhiều gia đình mới dọn đến,phần
nhiều là gia đình giáo chức người Bắc di cư. Trường Lê văn
Trung đón rất nhiều thầy giáo mới người Bắc,anh ba Rô hay
kể chuyện học trong trường,các thầy mới đến kiến thức rộng,dạy rất
hay nhưng nói khó nghe quá
.Từ
năm 1955 có tổ chức thi lấy bằngTiểu học do CQ VNCH cấp,.thí sinh có
phiếu báo danh,hội đồng thi đặt ở trường Tiểu học Tây
ninh,giám thị,giám khảo là những giáo viên của Ty GD TN mới thành lập
(năm
1954-1955 tôi học cao đẳng,dự thi tiểu học bị rớt nên trở về trường Lê văn
Trung học lại lớp tiếp liên,(1955-1956) lớp nầy do thầy Lê văn Vang(Dang???)dạy, hầu hết hs là những đứa đã dự thi TH rớt ,thầy Vang
rất nghiêm,đứa nào không thuộc baì hôm đó sẽ bị 1 đứa thuộc
bài đánh đít 3 roi, do sợ bị đòn nên các bạn học siêng
hơn?..năm đó (1956) tôi đã đậu Tiểu học). được cấp bằng hẳn hoi,rất tiếc là nó
đã bị thất lạc vì hồi đó chưa có máy photo như bây giờ để chup lại
Dưới
chế độ mới ,(Ngô Đình Diệm),mỗi tỉnh đều có cất 1 trường trung học công
lập.Trường Trung học công lập Tây Ninh cất năm 1955 trên 1 miếng đất rộng trước
là bãi tha ma.Tôi thi đậu vào trường năm 1956,khóa thứ 2.Lớp đầu tiên TH gọi là
lớp đệ thất.
Lúc
mới xây,trường THTN gồm 1 dãy nhà 1 tầng trệt,1
lầu. và 1 nhà để xe đạp lơp bằng tôn.Ở ngoài cổng đi vào là 1 phòng trống
rất rộng,phía tay trái là 4 phòng học và cầu thang dẫn lên lầu 1,tay phải là
phòng hiệu trưởng,phòng GV,văn phòng ,tủ sách...tôi nhớ kỷ khung cảnh nhà
trường năm đầu tiên TH vì hồi đó,ngay khi được thông báo là hs tốt nghiệp tiểu
học có thể thi vào trường công lập,tôi đã đi nhờ xe các bạn ra xem trường và
rất thích thú,cố gắng thi đậu để được học trường nhà lầu.
Học
THTN rất hay nhưng đối với gia đình tôi đó là 1 gánh nặng vì phải may đồng
phục,áo dài trắng quần đen hoặc trắng (con trai quần kaki xanh dương,áo
trắng)và phải mua 1 chiếc xe đạp vì từ nhà đến trường xa khoảng 5 km ,bạn
bè chung lớp tiếp liên không đứa nào gần nhà thi đậu để có thể
cho'' quá giang'' (đi nhờ xe),má tôi chạy tiền mua xe đạp khiến bà chủ phố (nhà
tôi ở thuê) cho là nhà tôi'' rộn chuyện",nếu lúc ấy tôi vào học trường TH
Lê văn Trung của đạo CĐ,tôi vẫn không phải đóng tiền (nhưng mà nữa năm sau
đó,vì không kham nỗi kinh phí mời thầy cho các lớp học trò càng ngày càng
đông nên học trường đạo cũng phải đóng 10 đồng/tháng ).Thời đó,số tiền nầy
không nhiều nhưng nếu nhà đông con đi học thì cũng mệt.
Nhờ
trơì thương nên năm đệ thất tôi được học bỗng 1.000đ,trả tiền xe đạp hết 700đ
cho chú tư Phước Tài,còn 300 đ mua sắm .Giữa năm lớp 6 ,má tôi dành
dụm mua được 1 căn nhà lá bên kia đường,đối diện với căn nhà đang thuê,giá
4.300đ, từ đó gia đình tôi khỏi phải đi ở nhà thuê
.Miền
Nam bấy giờ hàng hóa bắt đầu nhiều,học trò đi học xài cặp táp '(cartable-
tiếng Pháp) ,giả da để đựng tập vỡ nhiều loại thước bằng ,có viết máy bơm
mực,thường là hiệu Warterman ,màu đẹp,tập 100 trang giấy tốt,viết không
bị nhòe,có giấy nhiều loại khổ.
Lớp
đệ thất ,(lớp 6),ngày học 2 buổi, và học 2 ngoai ngử ,ngoai ngữ
chính là Pháp,phụ là Anh (cuốn L'Anglais vivant '). Sáng phải mang cơm
theo ăn,cơm gói vào trong cái mo nang cau (bẹ cau già,hơ lửa cho nó dẻo,ăn xong
rửa phơi khô ,hôm sau có thể dùng lại),thức ăn thường là muối ớt,khô nướng..
Bữa
trưa,mấy đứa nhà xa ở lại cùng ăn cơm với nhau,một bữa thầy giám thị ghé
qua hỏi 1 bạn nam :Hôm nay em ăn cơm với gì? Bạn ấy tủi thân khóc.Thầy
lên văn phòng nói gì không biết mà sau đó có thông báo những đứa nhà xa
được trường cho ăn cơm trưa tại 1 nhà dân cách trường khoảng 200
mét.Chúng tôi khoảng hơn 20- đứa được ăn cơm trưa đàng hoàng với 3 món đồ
ăn,canh mặn,xào đến hết năm đệ lục,sang năm đệ ngũ,chương trình học thay đổi,bỏ
môn sinh ngữ phụ Anh văn,mỗi ngày chỉ học 1 buổi nên trường không cho ăn cơm
trưa nữa.
Sau
đó,hàng hóa ngày càng nhiều, học phẩm tốt hơn,nhiều đứa xài gôm,com-pa
nhập . .Con trai,con gái đi học mặc đồng phục :
trắng may bằng nhiều loại vải khác nhau,chân mang xăng đan hay guốc gổ
Bấy
giờ khu nhà chúng tôi ở không có điện,muốn may đồ ban đêm má tôi xài đèn
khí đá,sau đó thì đèn "măng xông" ( manchon-tiếng Pháp)đây là
đèn do Pháp sản xuất,có bình chứa dầu hỏa và có bộ phận kim bơm dầu lên lên 1
bóng đèn bằng vải hóa học,trước khi đốt phải châm dầu,bơm lên rồi
mới mồi lữa,đèn sáng nhưng rất nóng.
Ngày
đầu tiên mặc đồng phục áo dài trắng đi học,tự cảm thấy mình hình như là 1 người
khác,lớn và quan trọng làm sao,tuy nhiên do ở tiểu học mặc đồ ngắn
quen rồi nên bị mặc áo dài suốt hơn 4 tiếng cũng rất gò bó.Buổi chiều vừa
ra khỏi trường là cả bọn ở chợ Long hoa đồng loạt cởi áo dài bỏ vào cặp
xắn quần lên cao,lấy dép,guốc máng vào tay cầm xe ,ung dung đạp về .Hồi
đó chúng tôi học lớp 6,còn nhỏ, bên trong áo dài thường là áo
" tay cúp" (áo ngắn tay xếp phồng) nên mặc như thế chạy ngoaì
đường cũng không sao và vì bọn tôi lúc đó mới tập đi xe đạp nên
nhiều đứa hay bị cuốn tà áo dài hoặc ống quần vào sên (chain) xe đạp
Năm
thứ 2 trung học là lớp đệ lục.Mỗi buổi sáng thứ 2 hs phải đi
sớm, tụ tập dưới sân trường làm lễ chào cờ và hát quốc ca trước,sau
đó là bài suy tôn Ngô tổng thống.Lời bài hát tôi quên mất nhưng sau nầy bọn tôi
hồn nhiên đặt lai để nghêu ngao "Tô hủ tiếu,tô hủ tiếu muôn năm.,toàn dân
VN nhớ ơn tô hủ tiếu...
Năm
đệ lục, lần đầu tiên tôi nhìn thấy rõ mặt ông Ngô Đình Diệm,buổi trưa hôm
đó,chúng tôi dược lệnh giám thị sắp hàng dọc theo 2 bên đường Trần Hưng Đạo,từ
cửa trường đến đầu chợ cũ để đón tổng thống,mỗi đứa cầm 1 lá cờ,hoặc hoa.Chúng
tôi chờ dưới nắng từ 1g trưa đến khoảng 2g30 thì tổng thống đi qua,ngồi
trên xe jeep mui trần,xe đi rất chậm gần sát lề và ông ta vẫy
tay chào mọi người 2 bên đường ,tôi nhìn thấy mặt ông Diệm rất rõ. Da
mặt ông hồng hào,có 1 nốt ruồi trên mặt,ông mặc complet trắng.
.Nghỉ hè năm đệ lục
,lần đầu tiên tôi được theo vợ chồng anh Hửu ( tên ở nhà là anh Be) con của bác
Bảy hớt tóc là hàng xóm,lên Saigòn chơi 2 ngày.
Anh
Be là hs trường Lê văn Trung,theo CĐ ly khai lên núi Bà Đen,sau một thời gian
,nhóm nầy về làm việc cho chính quyền ông Diệm,anh có 1 căn phòng ở 55 Hồ Xuân
Hương SGon,1 tòa nhà 2 lầu ,sau nầy là tòa soạn báo Cách mạng Quốc Gia.Sẳn anh
đưa vợ là chị Tám về SG chơi nên xin với má tôi cho tôi theo để biết SG
-
2 ngày,không đi đâu nhiều ngoaì chợ Saigòn và bến
Bạch Đằng nhưng đó là lần đầu tiên tôi được ăn kem, tôi còn nhớ tiệm kem
tên Pole Nord-đối với 1 đứa bé nhà quê ,đó là 1 món rất tuyệt
Trong
thời kỳ nầy,nghe nói có lệnh cho bà con hai miền Nam Bắc được liên lạc với nhau
bằng bưu thiếp,Ông Năm và má tôi tràn trề hy vọng gặp lại gia đình nên mua rất
nhiều bưu thiếp gửi về làng cũ nhưng tin gửi đi thì có mà không có tin trở lại
vì tôi nhớ lá thư nào bà cũng bảo tôi đề :gửi ông tiên chỉ làng
Tống thỏ,mà không biết rằng dưới thời CM của VNDCH, mọi thứ đều thay
đổi,những chức vụ ấy làm gì còn .
Năm
thứ 3 là lớp đệ ngủ.Năm này chúng tôi chỉ còn học 1 ngoai ngữ là
tiếng Pháp
Tôi
còn nhớ lớp đầu năm lớp đệ ngũ ,học trò thường mang dép kẹp 2 quai
(gọi là dép Nhựt) đi học.Thầy giám thị Mai buổi sáng hay đứng ở đầu
cầu thang 'xét dép'".Các thầy nói đây là loại dép người phương Tây thường
dùng đi trong nhà,các em đi học phải tập ăn mặc đàng hoàng,con trai phải mang
giày hay xăng đan có quai,con gái mang giầy hay guốc...sau đó không còn ai dám
mang dép nhật vào lớp.
Năm
học nầy có nhiều biến cố chính trị xen vào trường,lần đầu tiên học sinh bị tập
trung để nghe 1 ông nói chính trị ,theo lời kể ông ấy là người miền Nam
tập kết được chính quyền Hà nội cho đi Nga học . Khi xâm nhập
miền Nam mới biết những điều tốt của chế độ VNCH nên ông ấy bỏ theo
miền Nam.Học trò ngồi im nghe,phần cuối ông ấy có hỏi hs: có em nào có ý kiến
gì không thì tụi nhỏ nhau nhau : chú nói thử tiếng Nga đi,chào là gì?( vì hồi
đó chúng tôi được học tiếng Pháp,chào là Bonjour,chỉ là để xem nó khac nhau ra
sao thôi...không có khái niệm gì về chính trị), ông thuyết trình cũng vui vẻ
nói 1 tràng ., Về sau mấy đứa cùng lớp ngồi chơi nói với nhau : Nếu ông
ấy nói trật cũng đố ai biết.
.
Năm học đệ ngủ,chúng tôi được lệnh mỗi hs phải đóng tiền mua 3 mét vải bằng lụa
màu xanh nước biển để may áo dài mặc đi diển hành nhân các ngày lễ Quốc
khánh VNCH là 26/10 và lễ hai bà Trưng.
Về sau nhiều người nói rằng nhà máy
Vinatexco,nơi dệt vải là của bà Nhu( em dâu TT Diệm) và việc bắt mặc áo
dài xanh là để nhà máy nầy bán được hàng.Đó là nhà máy dệt hiện đại nhất thời
bấy giờ.
Rồi
các anh, chị từ 18 trở lên phải gia nhập thanh niên cộng
hòa,mặc đồng phục quần tây dài ,áo sơ mi kaki xanh dương,giày bata
trắng đi diễn hành các ngày lễ.Đây là lệnh ép buộc vì thời đó,ít người
hưởng ứng việc phụ nữ ăn mặc tập tành như vậy . Lúc đó hình như nhà nước
may đồng phục phát không cho nên tiệm may nhà tôi có nhiều việc
làm nhờ may đồ cho thanh niên cộng hòa. Ngoài giờ học,tôi lãnh làm khuy
nút áo cũng kiếm thêm được chút ít tiền.
Vào
ngày lễ Quốc Khánh VNCH,chúng tôi phải mặc đồng phục và cầm cờ 3 sọc đỏ
diễn hành qua 1 lễ đài thường cất đối diện với dinh tỉnh trưởng cạnh bờ
sông.Ngoài việc đó ra,chúng tôi không học chính trị .
VNCH
có đội chiếu phim lưu động hay về cửa số 7 nhiều lần để chiếu những phim chống
CS như :'Chúng tôi muốn sống" hoặc tuyên truyền về vệ sinh,sức khỏe.....
Hiệu
trưởng 3 năm đầu tiên trường THTN là thầy Võ văn Tam,người quê ở Gò Dầu TN,tôi
nhớ đến ông vì tính tình thật thà ,hệch hạc (ngôn ngữ lúc ấy-chỉ tính
người dễ dãi,không làm bộ tịch..) có lần ông hỏi tôi là có phải ba tôi là
Việt minh hay không.Tôi im lặng không biết trả lời sao thì ông nói : VM
đánh Pháp có chánh nghĩa ,gia đình thầy trước đây cũng theo VM.
Dù
còn khờ dại nhưng tôi coi đây là 1 bí mật.
Mấy
năm nầy có nhiều đoàn của chính quyền ông Diệm thăm tòa thánh TN vào các dịp lễ
lớn và họ mướn may những bộ áo dài nam bằng vải trắng.Má tôi là thợ may
duy nhất ở đó lãnh may đồ nầy,có lần chỉ trong 1 đêm,má tôi đã may xong 20
bộ áo dài để kịp sáng mấy ông đó mặc viếng chùa.Phải nói đó là 1 kỳ công
vì thời đó,máy may đạp chân,ủi bằng than,điện thắp sáng không có.
Năm
đệ ngũ,tôi học môn Việt văn với thầy Nguyễn Gia Khang,thầy người Bắc di
cư,tướng mập và thấp,mắt hơi lé.Thầy hay làm thơ đăng báo và ngâm cho hs
nghe,thầy hay nói về gia đình thầy,về cải cách ruộng đất miền Bắc làm
chết oan nhiều người,chúng tôi rất sợ CS-nghe nói thì sợ thôi chứ miền Nam đất
đai hàng khối,người không có sức mà làm,vài mẫu đất thì không thể coi là
địa chủ giàu có được.Sau thầy có con gái,thầy nói đặt tên em ấy là Liên Giang-
hy vọng nối đôi bờ sông Bến Hải-để các gia đình đoàn tụ...sau đó thầy bỏ dạy về
SG vì vợ chết lúc con chưa đầy năm
Từ
năm 1958,xóm cửa số 7 xuất hiện nhiều người lạ,họ mặc quần áo như người
thường,ban ngày thường tụ tập ở quán cà-phê đờn ca cải lương nhưng theo một số
người lớn tuổi,họ làm mật vụ cho ông Diệm.,bà Nhu.Đối với dân xóm,họ sống cũng
bình thường,mua bán sòng phẳng nhưng sau đó mọi gia đình có người thân tập kết
bị soi mói thường xuyên. Mấy nhà có xe trâu bò kéo gỗ trong rừng được nhắn là
không đóng thuế và tiếp tế gạo ,thuốc men cho VC
Thời
Ngô không học chính trị trong trường .Các thầy dạy,bậc trung học được gọi
là giáo sư, thầy người miền Bắc thường hay nói chuyện về thời sự, hơn các thầy
người Nam ,riêng thầy Tạ Cao Huê dạy Anh văn thì hầu như giờ
nào cũng hết 15-20 phút khuyên học trò phải chăm chỉ,cố gắng
Tôi
còn nhớ nhiều về các thầy cô những năm TH Đệ nhất cấp, ngoài thầy Tam còn
có cô H.Vân,Thái,thầy Thại dạy tiếng Pháp cô Minh Nguyệt dạy Anh văn,thầy
Vinh,lớn tuổi nhất hồi đó dạy Sử Địa và Vẻ,thầy Khương -GDCD,thầy Thạc
dạy Việt văn và Sử,thầy Sít dạy Vạn vật,thầy Phùng văn Bộ, Ng.văn Cố dạy
Lý Hóa thầy Triệu thầy Bé dạy Toán,nói chung các thầy cô đều dạy chúng tôi với
tất cả tấm lòng,không phân biệt đối xử,trong cuộc sống hàng ngày phải đặt Đạo
Đức lên hàng đầu hơn là lòng căm thù.
. .
Mấy
người mật vụ cũ đổi đi,mấy người mới đến,trông..họ dữ dằn hơn.Một sáng nọ tại
chợ cửa số 7,1 anh thanh niên trong xóm nghe đâu mới sắm 1 chiếc xe đạp mới đem
để ngáng đường vào chợ,có 1 ông mật vụ đi ngang đẫy xe vào trong,không hiểu lời
qua tiếng lại ra sao mà anh nầy bị 4,5 người xúm vào đánh chảy máu mũi ,còn bị
bỏ lên xe lôi chở vào trụ sở của công an mật gần cửa số 4 (Khách sạn Nhàn Du ).
Sau nầy nghe nói Bác
anh ấy - là 1 chức sắc đạo CĐ phải. đến tận trụ sở CA xin anh
ta ra. Việc đó làm mọi người đều sợ.Lần đầu tiên tôi đã chứng
kiến cảnh công an VNCH đánh dân một cách tàn bạo.
Vào tháng 3/1960,lúc tôi đang học đệ tứ, có 1 vụ thi hành án ở Trí Bình, cho hs
nghĩ học 1 buổi để đi xem chính quyền Ngô Đình Diệm chém ông Hoàng
Lệ Kha( sau nâỳ tôi mới biết đó là cán bộ cao cấp của Mặt trận GP miền Nam) vì
không bắt buộc đi xem nên lớp tôi,(lớp nữ) trốn ở nhà - vả lại lúc
đó,thật ra cũng không để ý gì về chính trị nhưng phần lớn hs đều
nghĩ việc chém 1 người giữa thanh thiên bạch nhật cho nhiều người đến xem là
quá tàn ác và man rợ,nó giống như thời trung cỗ.Về sau,có 1 bạn học nam kể là
nhiều người xem buổi hành quyết ấy đã bị ngất xĩu.
Năm
đệ tứ là năm chuẩn bị thi THĐệ nhất cấp nên tôi phải học hết sức chăm chỉ.
Tháng
5 năm 1960,lần đầu tiên thi TH Đệ nhất cấp ở Saigon,mấy đứa bạn học đều lo
lắng,ngoại trừ vài đứa gia đình khá giả có đến SG ,đa số là những
đứa chưa bao giờ ra khỏi tỉnh.Bác hai Líp (tên tây Philip) là hội Phụ huynh HS
trường Lê văn Trung mướn 1 chiếc xe đò cho hs nghèo đi thi và lo luôn chỗ trọ
cho mấy đứa,tôi được đi ké vào xe đó vì ở gần nhà bác.
Tôi
còn nhớ đó là trường Hồ Ngọc Cẩn ở gần chợ bà Chiểu,lớn gấp mấy lần
trường THTN của tôi.
Thí sinh TN đều được thi ở trường nầy chung với các bạn đến
từ nhiều nơi khác.HĐ thi bố trí chỗ ngồi ,chia phòng thế nào mà mỗi phòng đều
chỉ có 1 hoặc 2 ts TN thôi và ngồi cách xa nhau.Nói chung thi cữ được tổ
chức thực sự công bằng và nghiêm túc.
Bác
Líp mượn được 1 dãy phòng trên lầu của nhà người quen đối diện trường Hồ Ngọc
Cẩn cho mấy bạn trai ở ,bạn gái ở 1 căn nhà khác cũng gần chợ,riêng chúng
tôi gồm 4 đứa :Thu,Thu Vân ,KimAnh và tôi bác dẫn đến 1 căn nhà trên
đường Lê quang Định.Nhà nầy trong hẻm,1 cái nhà ngói xưa,có vườn rất rộng,nhiều
phòng,đồ đạc xưa mà chỉ có 2 cụ già ở,là mẹ chồng và con dâu.Hai cụ đều vui
vẻ,tốt bụng,chỉ dẫn đủ thứ ,nhượng nguyên 1 gian bên hông cho mấy đứa
được tự do ôn bài,và tất cả đều miễn phí.
Được
giúp đở tận tình như thế nhưng kỳ thi ấy cả 4 đứa đều rớt.Tôi còn nhớ hoài bài
thi dịch tiếng Việt ra Pháp câu đầu là : Sinh ở thời đại máy bay
phản lực,vô tuyến truyền hình.....Ôi trời máy bay thì có thấy nhưng nhưng phản lự là gì? và
vô tuyến truyền hình chỉ nghe nói thôi tại TN không có,radio ( máy truyền
thanh)là quá sang rồi.
Tôi
cứ lẩn quẩn : máy bay : avion ,máy bay phản lực:????,vô tuyến truyền
hình:....????.Lấn cấn như thế nên mất nhiều thời gian và phần sau không làm
kịp.
Tháng
6,chúng tôi ,những đứa rớt và không thi kỳ 1 dự thi kỳ 2.Thời gian trước đó tôi
ở nhà,ôn bài rất kỹ vì đây là lần thi cuối cùng,nếu không đậu phải học lại chớ
không được lên đệ tam (lớp 11 bây giờ).Tôi đậu bằng TH.Đệ nhất cấp năm
1960,kỳ thi thứ 2.Theo thầy Tam,tỷ lệ tốt nghiệp năm đó kỳ 1 là 33%,kỳ 2 là
14%%.
Năm
đó nếu đủ 18 tuổi,tôi có thể dự thi GV tiểu học-học 1 năm sư phạm,ra trường
lương 4.5ood (rất lớn=200 giạ lúa).Nhưng tôi mới 16 tuổi,phải cố học tiếp qua
đệ nhị cấp.
.Năm
1962,kỳ thi TH Đệ nhất cấp không còn tập trung ở SG nữa,tỉnh nào tổ chức cho
tỉnh ấy thi nên các thí sinh ở tỉnh đở vất vả khi dự thi và nếu không có bằng THĐNC
vẫn được lên lớp học tiếp để năm sau thi lại
Đệ nhị cấp
Đệ
nhị cấp được phân ban :
-
A : Môn chính là Vạn vật (sinh),toán,Việt văn,sinh ngữ chính và phụ : thường là
Pháp và Anh,sử địa,công dân.
-
Ban B : Môn chính là Toán,các môn kia cũng y như vậy.
_Ban
C : Môn chính là ,Việt văn Sử địa, sinh ngữ,các môn kia học cũng y như vậy
nhưng hệ số khi thi ít hơn.Ban C được gọi là ban Văn chương.
-
Ngoaì ra nghe mấy thầy thầy nói thường là trong các trường tôn giáo,hs học ban
Đ gồm ngoai ngữ,tiếng Hán,tiếng La tinh....nhưng ở TNinh bấy giờ,chỉ có 2
ban A và B.
Lớp Đệ tam
:
Năm
1960-61,tôi vào lớp đệ tam B1 trường THTN là lớp có 56 hs,tôi nhớ con số nây vì
có 1 bạn nào đó làm 1 bài thơ giống thể đường luật bằng tên của 56 bạn trong
lớp, tiếc là tôi đã quên bài ấy.Lớp B1 có hơn 10 nử,còn lại là nam,B2
toàn Nam.Tất cả những hs vào các lớp nầy bắt buộc phải có bằng TH Đệ nhất cấp.
Giữa năm hoc ,ba 1 bạn ở Bến Cầu mất,lớp chúng tôi đên viếng,lần đầu tiên tôi đươc đi ghe lớn từ Cẩm Giang qua sông Vàm Cỏ đến Bến Cầu
Choáng ngơp trước cảnh bao la sông nước ,tôi đứngthành ghe nhìn cảnh trời chiều bổng nước sông văng lên ướt áo thì ra mấy anh bạn cùng lớp đang ăn mía thấy bóng tôi in xuống nước lấy xác mía chọi xuống.
Năm đệ nhị khó khăn hơn,cố học thêm Pháp văn,Toán mà vẫn rớt (vì lúc nầy Bà nội tôi đã gặp người cháu gọi bằng dì ruột sau mấy chục năm cách xa,vợ chồng bác ko con nên coi tôi như con ruột,hè là xuống SG học thêm.
Tôi thi rớt Tú Tài 1 năm 1962 và phải hoc lại 1 năm nửa tại THTN
Qua năm sau tôi đâu TT.1 hang bình thư rồi thi tiếp vào Sư Phạm Saigon và cũng đậu.
.Năm 1964,tôi tự hoc và đậu luôn bằng Tú Tài 2 ban Triết (C) ngày 20/5/1964